Lịch sử truyền thống

 

LỜI NÓI ĐẦU

 Năm 2024 là năm bứt phá, tăng tốc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, là năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Cựu chiến binh (CCB) Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2022 - 2027. Đây cũng là năm cả nước nói chung, Hội CCB Việt Nam nói riêng có nhiều hoạt động để kỷ niệm những ngày lễ lớn của Đảng, Nhà nước, Quân đội và CCB Việt Nam.

Thực hiện sự chỉ đạo của Thường trực Trung ương Hội, Ban Tuyên giáo Hội CCB Việt Nam biên soạn và phát hành Sổ tay tuyên truyền: Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, Quân đội anh hùng, CCB “Trung thành – Đoàn kết - Gương mẫu – Đổi mới” tới Hội CCB các cấp và cán bộ, hội viên, nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; truyền thống của Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân Việt Nam, Hội CCB Việt Nam; tăng cường niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của cán bộ, hội viên trong thực hiện công tác Hội, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh toàn diện, xứng đáng là lực lượng chính trị nòng cốt, cầu nối vững chắc giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Cuốn Sổ tay tuyên truyền cung cấp tới bạn đọc những nội dung cơ bản nhất về quá trình hình thành, phát triển, cũng như chủ trương, đường lối  của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ; về thân thế, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh; những thành tựu của nhân dân ta, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; về sự ra đời, chiến đấu, chiến thắng, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội CCB Việt Nam. Cuốn Sổ tay tuyên truyền được tổ chức biên soạn nghiêm túc, với tinh thần trách nhiệm cao, nhưng khó tránh khỏi những hạn chế, Ban Tuyên giáo rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí.

Trân trọng giới thiệu!

 

BAN TUYÊN GIÁO HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

Phần thứ nhất

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - NGƯỜI TỔ CHỨC VÀ LÃNH ĐẠO MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

  1. Bối cảnh lịch sử

1.1. Bối cảnh quốc tế

Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc; đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ.

1.2. Bối cảnh trong nước

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, biến nước ta thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này là giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến và giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp. Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của nhân dân chống thực dân Pháp diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại. Việt Nam khủng hoảng sâu sắc về đường lối cách mạng.

  1. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng

Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước, với khát vọng giành độc lập tự do cho dân, cho nước. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của VI. Lênin đăng trên báo Nhân đạo (Pháp) và đã giải đáp cho Người về con đường đấu tranh giành độc lập, tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào. Từ năm 1921 - 1930, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, hay còn gọi là Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (1925); tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc; gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) - Những bước chuẩn bị về tổ chức và cán bộ cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ ngày 06/01 đến ngày 07/02/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì và thay mặt Quốc tế Cộng sản tổ chức Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở bán đảo Cửu Long, Hồng Kông (Trung Quốc). Hội nghị nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và đề ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,... lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện khát vọng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH)..

  1. Ý nghĩa về sự ra đời Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối đúng đắn đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết, thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc. Đây là bước ngoặt của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.

  1. NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA ĐẢNG
  2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)

Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 03 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945:

- Cao trào cách mạng 1930 – 1931, đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền ở một số nơi theo hình thức Xô Viết; khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng Liên minh Công – Nông; Mặt trận Dân tộc Thống nhất; phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.

- Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Nhân dân đã đoàn kết đấu tranh buộc thực dân Pháp phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ, tập hợp và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong tổ chức, lãnh đạo quần chúng.

- Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945): Các tầng lớp nhân dân đã đoàn kết, chiến đấu ngoan cường kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến tối nát tay sai. Đây là bước ngoặt vĩ đại, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam) - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Thời đại mới của dân tộc Việt Nam ra đời - thời đại Hồ Chí Minh.

  1. Đảng lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước (1945 - 1975)

2.1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng; toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 - 1954)

Từ năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; bầu cử Quốc hội (06/01/1946), xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (09/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung bộ.

Tháng 12/1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.

2.2. Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954 - 1975)

Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng CNXH. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới. Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Với đường lối chiến tranh nhân dân, tranh thủ sự giúp đỡ to lớn của các nước XHCN và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc. Đồng thời, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội đưa miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH.

  1. Thời kỳ tiến hành cách mạng XHCN trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay

3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986

Đảng ta lãnh đạo nhân dân khôi phục kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất và tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và đã đạt thành tựu to lớn. Đẩu thập kỷ 80, thế kỷ XX, đất nước lâm vào sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội, đứng trước những thách thức, khó khăn ngặt nghèo, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới toàn diện đất nước.

3.2. Từ năm 1986 đến nay

- Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ở nước ta.

- Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đường lối đổi mới; thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện và không ngững bổ sung, phát triển hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới. Đồng thời, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Đến nay, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. “Đất nước ta chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Chính trị - xã hội ổn định; tiềm lực, sức mạnh kinh tế được nâng lên; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Việt Nam đã là nước có nền kinh tế phát triển, có thu nhập trung bình; có quan hệ với 193 quốc gia và vùng lãnh thổ (có 03 nước quan hệ đặc biệt; 06 nước quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước quan hệ đối tác chiến lược và 13 nước quan hệ đối tác toàn diện). Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị vững mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt kết quả tích cực.

Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta mới có khoảng 500 đảng viên, nhưng đến ngày 31/12/2022, Đảng ta đã có hơn 5,3 triệu đảng viên, sinh hoạt tại gần 52 nghìn tổ chức cơ sở Đảng, độ tuổi trung bình là 45,2. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào thành công của công cuộc đổi mới, ra sức thực hiện khát vọng độc lập dân tộc và CNXH.

  1. Những bài học kinh nghiệm của Đảng

Một là, Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH; CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ.

Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhân dân làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, chế độ XHCN.

Ba là, Không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân: Đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế - Truyền thống quý báu, nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công.

Bốn là, Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, phải luôn kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực; tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.

Năm là, Sự lãnh đạo của Đảng quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài phụng sự Tổ quốc, nhân dân; luôn nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.

III. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG, XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, ĐẤT NƯỚC GIÀU ĐẸP, VĂN MINH

Truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng:

- Trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn, cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước mới thật sự được độc lập; dân tộc mới thật sự được tự do; nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

- Giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm: chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo; xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng.

- Gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn lấy phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ, hết lòng tin yêu, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là sự gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

- Đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Đây là truyền thống, là nguyên tắc tổ chức, tình cảm của những người cộng sản chân chính.

- Đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn, phát huy sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh.

Phần thứ hai

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

SÁNG NGỜI, LÃNH TỤ THIÊN TÀI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 

  1. KHÁI QUÁT THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
  2. Thuở thiếu thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi ra đi tìm đường cứu nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng Thị Loan.

Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống trong sự chăm sóc đầy tình thương yêu của gia đình. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu qua đời, Người theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích cực học chữ Hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, thời gian đầu học trường Pháp - Việt, sau học trường Quốc học Huế. Tháng 6/1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định và tháng 8/1910 vào Phan Thiết, Bình Thuận làm giáo viên trường Dục Thanh. Tháng 02/1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn.

  1. Tóm tắt quá trình hoạt động cách mạng

Giai đoạn 1911 - 1920:

Ngày 05/6/1911, Nguyễn Tất Thành lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi Pháp. Từ năm 1912 -1917, Người đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ. Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6/1919 thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Người gửi bản yêu sách gồm 08 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới Hội nghị các nước đế quốc họp ở Véc-xây (Pháp), đòi chính phủ các nước dự Hội nghị thừa nhận quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tháng 12/1920, Người tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp và bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.

Giai đoạn 1921 - 1930:

Từ 1921 đến 6/1923, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I, Đại hội II của Đảng Cộng sản Pháp, Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Người cùng khổ (Le Paria), sau đó rời Pháp đến Đức và đến Xanh-pê-téc-bua (Liên Xô). Từ 7/1923 đến 10/1924, Người hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế: Quốc tế Nông dân; dự Đại hội II Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; viết báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp; dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản và là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản. Tháng 11/1924, Người rời Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (Việt Nam thanh niên cách mạng hội), mở các lớp huấn luyện cán bộ, thành lập Báo Thanh niên (21/6/1925) truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Người được tập hợp và in thành sách Đường Cách mệnh, xuất bản 1927. Tháng 7/1928, Người tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại Trung Quốc. Từ 06/01 đến 07/02/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Giai đoạn 1930 - 1945:

Tháng 6/1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông rồi được trả tự do vào cuối 1932, sau đó đến Liên Xô học tại trường Quốc tế Lênin. Tháng 10/1938, Người đến Diên An (Trung Quốc) làm việc tại Bộ Chỉ huy Bát lộ quân, chuẩn bị về nước chỉ đạo cách mạng Việt Nam.

Ngày 28/01/1941, Người về nước tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Từ ngày 10 đến 19/5/1941, Người chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng tại Khuổi Nặm (Pắc Bó, Cao Bằng). Hội nghị xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc; chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, báo Việt Nam Độc lập; tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa. Tháng 8/1942, Người lấy tên là Hồ Chí Minh và đại diện cho Mặt trận Việt Minh sang Trung Quốc liên lạc với Đồng minh. Hồ Chí Minh bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong lúc bị giam giữ, Người viết Nhật ký trong tù. Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng, chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (12/1944). Tháng 5/1945, Người từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Tháng 8/1945, Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Người đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Giai đoạn 1945 - 1954:

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, đối phó với thù trong, giặc ngoài, tổ chức tổng tuyển cử trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Pháp, đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, đưa miền Bắc đi lên xây dựng CNXH.

 Giai đoạn 1954 - 1969:

Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối đúng đắn, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi; đặt nền móng và vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.

  1. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
  2. Tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc gắn với CNXH

Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, đất nước vẫn đứng trước những khó khăn thách thức to lớn. Các thế lực thù địch đấy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, với những chiêu thức, thủ đoạn tinh vi chống phá Đảng, Nhà nước. Vì vậy, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên định, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH; tuyệt đối trung thành, nhận thức đầy đủ, sâu sắc về nội dung, giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH. Từ đó, vận dụng sáng tạo, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

  1. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh 

Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Xây dựng Đảng ta thật sự Đạo đức, văn minh, có trí tuệ, bản lĩnh, phương pháp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quyết định đến mọi sự thắng lợi của cách mạng, của dân tộc Việt Nam. Đảng ta khẳng định, tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực, kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; củng cố tổ chức; tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,... là vấn đề sống còn của Đảng và chế độ ta.

  1. Phát huy ý chí, khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước 

Đảng, Nhà nước, cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp cần quan tâm, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thu hút trọng dụng nhân tài; đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học – công nghệ; quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

  1. Thực hiện tốt Kết luận số 01-KL/TW, của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhiệm kỳ 2020-2025.

Đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý nghĩa, tác dụng của phong trào thi đua yêu nước; kịp thời lựa chọn, phát hiện, bồi dưỡng các mô hình, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, thiết thực ở địa bàn cơ sở; gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới,... là việc làm thường xuyên, cấp thiết của tổ chức Đảng, cấp uỷ, chính quyền và đoàn thể. Qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025.

Phần thứ ba

NHỮNG THÀNH TỰU CÓ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 

  1. CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 - SỰ KIỆN VĨ ĐẠI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
  2. Khái lược bối cảnh lịch sử và diễn biến

Ngày 09/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện Liên Xô và Đồng minh, chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc ở châu Âu. Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ Hai kết thúc. Quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Thực dân Pháp lăm le khôi phục địa vị thống trị ở Đông Dương. Đế quốc Mỹ sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động trong chính quyền tay sai Nhật âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.

Ở trong nước, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật đảo chính, hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng của Đảng ta quyết định phát động cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; Tháng 4/1945, triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (Chính phủ Lâm thời cách mạng Việt Nam).

Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ. Đầu tháng 5/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 04/6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập. Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm Tổng khởi nghĩa thắng lợi, là: Tập trung, thống nhất, kịp thời. Vào lúc 23 giờ, ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân Tổng khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua: “10 chính sách lớn của Việt Minh”; “Lệnh Tổng khởi nghĩa”; quy định Quốc kỳ, Quốc ca; thành lập Chính phủ Lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Người đã gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước, nêu rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Trong vòng 15 ngày, đến cuối tháng 8/1945, Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền cả nước về tay nhân dân. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

  1. Nguyên nhân thắng lợi

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, với phương pháp, chiến lược, chiến thuật phù hợp, linh hoạt; xây dựng, chủ động đón thời cơ, kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa. Nhân dân Việt Nam có tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường, một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc.

  1. Ý nghĩa lịch sử

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là thành công đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Khẳng định rằng, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên con đườngchủ nghĩa xã hội.

  1. Một số bài học kinh nghiệm

Một là, Đảng ta là đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.

Hai là, Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi. Biết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp, đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Ba là, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc.

  1. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC GIÀNH THẮNG LỢI, ĐỈNH CAO LÀ CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ
  2. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ vinh quang.

Năm 1945 - 1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân chống thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc: xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 6/01/1946, xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (năm 1946); chăm lo xây dựng chế độ mới; chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp; trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám. Tháng 12/1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; vừa kiến quốc vừa kháng chiến dựa vào sức mình là chính; tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là chương mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.

 

  1. Chiến dịch Điện Biên Phủ - “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”

2.1. Bối cảnh lịch sử

Ngày 19/12/1946 đáp Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta anh dũng bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Với tinh thần “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp, giành những thắng lợi nổi bật:

- Chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông năm 1947, là đòn quyết định làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng và đầu não kháng chiến, mở ra giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.

- Chiến dịch Biên giới năm 1950, tạo ra bước chuyển cơ bản cho cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới. Ta nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, liên tục tấn công và phản công địch. Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng; quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng.

- Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.

Thu - Đông năm 1953, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava, nhằm trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định Nam Đông Dương. Đây là nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ nhằm giành lại thế chủ động có tính quyết định về quân sự trên chiến trường, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có lợi cho chúng. Theo đó, Pháp và Mỹ đã lập kế hoạch đến năm 1954 quân chủ lực Pháp có 07 sư đoàn cơ động chiến lược với 27 binh đoàn làm nắm đấm thép.

Về phía ta, tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân với phương châm: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt; tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta; chọn nơi địch sơ hở và tương đối yếu mà đánh; chọn những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giữ vững thế chủ động; kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng. Quân và dân ta đã phối hợp với quân và dân hai nước: Lào, Campuchia liên tiếp mở chiến dịch và giành thắng lợi ở Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào, Đông Campuchia, Tây Nguyên và Thượng Lào, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng của địch, buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng để đối phó trên khắp chiến trường Đông Dương, đẩy chúng vào tình thế bị động chiến lược.

Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai Châ